Update: May 24, 2016
越史演義四字歌
是歌起自炎帝神農氏三世孫帝明之时至我本朝 世祖中興之始歷数千餘年之乆今擇其大事要義演成一編以便婦女兒童略知梗㮣庻可免籍談数典之譏不無小補云耳𨿽幾經删繁除冗補缺訂訛恐不免掛一漏萬之誚閱者諒之
經呈
太子少保協佐大學士管領學部尚書兼禮部事務國史館總裁兼國子監充機密院大臣慶美子信齋胡相公鑒定
承手批云
詞簡而足政之,賢王筆法是亦有功於越史
啟定陸年正月日
越史演義四字歌
綏理郡公改授禮部右參知專充尊人府左尊卿洪茸肖卿
綏理王第十八子工部侍郎兼充衛生會會議員洪蔎陸卿
仝演譯
1. 𠊚渃南些、沛𥋳史越、窮頭典𡳪、𡀯之朱別
5. 自戶鴻厖、涇陽王、本𣳔炎帝、封在南方
9. 𡥵羅貉龍、𡥙羅雄王、自意號渃、浪文郎
13. 傳𨒒𠁀、稱雄王、鄧𠄩𠦳𦒹、𠄩𢆥長
17. 蜀安陽王、滅渃文郎、稱浪甌貉、𦀼户鴻厖
21. 𤤰蜀𣅶意、磋搭螺城、磋𨖲補、埃乃驚
25. 𤤰蜀𡄩㗑、天地神灵、俸𧡊沒𠊚、金龜現形
29. 呐共𤤰蜀、事跡停伶、𥪝𡶀七曜、𡗉類夭精
33.
冤魂鬱結、𢧚浽橫行、吀沛除𠫾、買磋邒城
37. 𤤰蜀𦖑蹺、姅𣎃城耒、欺金龜、辞別吀𨆢
41. 𤤰蜀呐吏、𢘾翁典低、𤾓安穏、群礙𡮇尼
45.
城池茄渃、㐌凭鐄、𣈕𡢐固賊、𥙩之揲乱
49.
金龜𦖑呐、朱沒𤔽蹎、𠴍、灵動坤垠
53. 𢏑𦋦沒發、𣩂賊䋲、噲羅神弩、埃敵朱朋
57. 秦𦖑𡎝南、窒𡗉珠玉、卞差趙佗、抌軍打蜀
61. 蜀固神弩、佗敵戈、軍趙穷困、佗吀講和
65.
朱𡥵仲始、典𠳨媚珠、仲始坤、蜀王嫁朱
69. 仲始乗機、𥋳𣛠神弩、媚珠信払、朱払𥋳𥄭
73. 空咍仲始、拉產謀奸、𥋳戈𥄭吏、𢷮𤔽鐄
77. 呐共媚珠、衛探吒媄、𢚸算打蜀、謀溇情弊
81. 假徒㤇、擬𠓀推𡢐、沒𣈕離乱、別娘於
85. 每𠊚每處、痚𢚸𤴬、隔阻、𠁀𧡊饒
89. 媚珠𠽔浪、妾固𧛋、抌蹺邊𨉟、𧯶敢惜功
93. 妾𠫾塘、補𦋦塘、払㐌固𢚸、𠓀𡢐拱𧡊
97. 仲始衛典、軍趙捁𨖅、𤤰蜀唭吶、趙佗肝
101. 空咍神弩、𣛠㐌𠅎𠫾、抌軍𦋦打、輸𧼋即時
105. 𤤰蜀拯別、婿巧𡥵愚、信用仲始、㤇媚珠
109. 典澄危險、求救金龜、金龜𦋦呐、戝在姑尼
113. 媚珠嘆咀、仲始奸欺、蜀王別邒、捽𣩂𣦍
117. 軍趙乗勝、捁典連𣈜、𤤰蜀輸𧼋、卞滅蜀𠫾
121. 趙武帝佗、𠁟渃甌貉、傳邒𠄼𠁀、趙衰漢滅
125. 𠊚漢自、郡縣渃些、差官戈治、蘇定奸邪
129. 𠊚處安明、徵測徵貳、𨿽浪女兒、寔羅才智
133. 復讐起義、𨘗蘇定衛、交州沒𡎝、收復山溪
137. 漢差馬援、捁𥊢兵戈、打共徵王、吏𥙩坦些
141. 徵王㛪姉、殉難沒茄、𠸗忠義、㗂苓吨賖
145. 馬援打耒、卞𥩯銅柱、𥙩坦南交、界限細妬
149. 典𡢐士爕、鎮交州、𨷑茫文運、自頭
153. 傷民𠰺𠳿、禮義文章、民㤇敬、尊浪士王
157. 南交坡𡎝、自漢典梁、属𠓨中國、別長
161. 𠊚渃南些、固翁李賁、生處太平、多才多智
165. 梁差霸先、打共李賁、蘇瀝嘉寧、梁調欣李
169. 李𠾕光復、交朱兵權、𨆢衛獠洞、避難沒番
173. 翁趙光復、邒𤔽𧏵鐄、打欣妬、稱趙越王
177. 後李佛子、打趙空衝、朱𡥵婿、濫𥙩𤔽𧏵
181. 軍李捁典、共趙交鋒、趙王輸𧼋、𧿆東
185. 佛子滅趙、都在州峰、隋差劉方、禍福誘共
189. 𤤰碎佛子、𦋦𠹾投、南交坡𡎝、衛隋收
193. 典唐高尊、改號安南、特官都護、凜仉暴貪
197. 傳細德尊、都護正平、奸頑荷刻、殘害生灵
201. 𠊚處林、𠸜羅馮興、家資豪富、智勇埃朋
205. 𧻭兵圍城、𣩂𠸜正平、收復赤縣、濟度蒼生
209. 𢀭𢀨眜、𧊉𥊚𥊑、馮安追尊、布蓋大王
213. 馮安𦀼業、𦖑蹺趙昌、呐利害、自投
217. 昭宣帝、洪州曲顥、自稱節度、南漢通好
221. 林吳權、乗欺當乱、𧻭兵復讐、𣩂𠸜公羨
225. 南漢劉龔、差𡥵弘操、自滝白藤、抌兵典救
229. 吳權破漢、自稱吳王、於𡾵𦒹𢆥、沒黃粱
233. 遺囑㛪、𠸜羅三哥、三哥僭位、昌岌遁賖
237. 可𠸦昌文、打𨘗三哥、卞逴英衛、共治渃茄
241. 昌文𦋦打、阮太平、姅𣎀中筅、薨在𥪝营
245. 自藩鎮、占據紛紜、𠓀𡢐𨒒𠄩、稱使君
249. 翁丁部領、𠊚處閭、號浪萬勝、智勇固餘
257. 丁皇被弒、丁璿𦀼 𨖲、㐱固𠄩𠁀、邒𨒒𠀧年
261. 將軍黎桓、私通楊氏、軍宋𨖅侵、黎桓即位
265. 黎邒𦀼丁、為楊后、不義不忠、𢆥群醜
269. 大行崩殂、中尊即位、買邒𠀧𣈜、卧朝逆弒
273. 卧朝奸巧、殘暴性成、刀山劔樹、排特嚴刑
277. 弒逆篡奪、𨖲𡾵𦊚年、醝迷酒色、病𣩂連
281. 𡥵羅黎乍、歲𡮈才、各官卞逴、公蘊尊𨖲
285. 李祖即位、建元順天、𨒒𢆥、外朗𥪝安
289. 太尊守成、友悌窒賢、英㛪反逆、㤙法院全
293. 典𠁀英尊、輔政憲誠、沒𢚸忠義、拯恪孔明
297. 傳典惠尊、空固𡥵𤳇、𡥵𡛔昭皇、承統𦀼𡾵
301. 固𠸜陳煚、歷事、𠓨侯昭皇、昭皇窒傷
305. 守度排謀、昭皇讓位、陳煚𨖲𡾵、陳卞𦀼李
309. 太尊聖尊、傳典仁尊、𠀧𠁀盛治、榜朗外𥪝
313. 元差大將、𠸜羅脫驩、典陷京城、自處江
317. 尊臣忠義、興道大王、白藤沒陣、破賊散荒
321. 自陳太尊、典陳少帝、少帝踈癡、季犛篡位
325. 陳𨒒𠄩𤤰、𤾓餘年、後陳𠄩𤤰、年𠅎連
329. 季犛篡陳、渃號大虞、傳位漢蒼、𡨺基圖
333. 吒𡥵季犛、𨖲𡾵𦒹𢆥、打共張輔、被生扲
341. 藍山黎利、卞𧻭義兵、傷害民些、打𨒻官明
345. 艱危𤾓陣、收復𠄩京、𨒒𢆥平定、𦊚𣷭澄清
349. 太尊𦀼治、性本聰明、嫌為迷色、𢧚浽傷生
353. 仁尊冲幼、太后垂簾、宜民乱、𠓨城姅𣈘
357. 仁尊遇害、宜民僭𨖲、朝碎𡳵、𣩂害連連
361. 黎熾丁烈、倡義廢𣦍、卞迻嘉王、尊𨖲連𣈜
369. 史稱明主、才德恪常、共中國、武帝文皇
373. 憲尊肅尊、傳典鬼王、信用外戚、殘害忠良
377. 翁阮文郎、共翁簡修、軍三府、𦋦打東都
381. 鬼王自刎、猪王𦀼𨖲、於𡾵𢆥、維㦃弒連
385. 昭尊即位、登庸弄權、𢚸算篡奪、昭尊憂煩
389. 姅𣈘車駕、戈處山西、登庸空計、拯逴𤤰衛
393. 立黃弟椿、在省海陽、昭尊衛京、登庸刼昻
397. 昭尊輸𧼋、鄭綏救駕、𦖑讒𣩂害、鄭綏將佐
401. 鄭綏𢤞恨、護駕𠓨清、登庸卞逴、黃弟衛京
405. 昭尊被扒、登庸弒、傳朱皇弟、禪位即时
409. 戶莫篡黎、戈告明連、𤼸鐄𤼸坦、明朱聀權
413. 登庸𨖲𡾵、買鄧𠀧年、朱𡥵登瀛、即位改元
421. 德肇祖些、𠓀官黎、𧡊莫僭窃、𢜝𤾓皮
425. 打莫諸邒、另𠓨哀牢、𤤰牢乍斗、朱於岑州
429. 招兵買馬、尋劍𣳔黎、﨤特莊尊、車駕逴衛
433. 別翁莊尊、羅𡥵昭尊、𠊚卞立𨖲、立耒進攻
437. 𠊚𧡊鄭檢、韜畧精通、嫁𡥵玉寶、朱先鋒
441. 打共户莫、在處雷陽、軍些衝突、軍莫散荒
449. 軍典西都、將莫𦋦投、𠸜羅執一、計險謀溇
465. 交朱鄭檢、節制各营、督率將佐、打共莫兵
473. 𨁡蹺志𠓀、扶黎窒忠、鄭檢疑忌、𢜝坤穷
477. 吶共玉宝、𠓨鎮費𥪝、烏州惡地、寔拱甘𢚸
481. 鄭檢擬浪、烏州沒𡊲、奏朱𠓨鎮、𠓀𡢐拱苦
485. 太祖𧡊旨、領船捁無、典尼廣治、掑𥩯基圖
497. 西山阮岳、於在平定、卞共集亭、引兵𦋦打
501. 鄭差五福、拱捁兵無、計罪福巒、吀沛𢧚誅
505. 各官𠳐旨、抌納福巒、埃咍五福、呐挌謀奸
509. 吏迻書浪、英㛪阮岳、占據歸仁、縱橫暴虐
513. 吀軍鄭、执貝官軍、同𢚸𣍊飭、除賊救民
517. 五福奸計、睿尊諸𦖑、軍鄭衝細、軍些𨆢衛
529. 立皇孫暘、稱浪東宮、鎮省廣南、䀡察外𥪝
533. 岳差集亭、軍典打、卞迻東宮、衛平定
537. 姅𣈘東宮、𠫾蹺商船、𧼋𠓨嘉定、𠄼𣈜典連
545. 岳卞遣使、細謁鄭营、吀共五福、情願投誠
549. 鄭朱阮岳、職將軍、吏差裴達、𠓨鎮富春
553. 睿尊𣅶、﨤皇孫暘、卞禪位朱、稱新正王
557. 岳差惠侶、𠓨打柴棍、軍賊殘暴、軍些耗𤷱
565. 德高皇些、𠫾蹺睿尊、艱危凜𣅶、勞苦坤穷
569. 睿尊刎別、才德欣𠊚、復基業𡳵、常呐共𠊚
573. 﨤干國變、群當少年、元帥攝政、各將尊𨖲
577. 𢆥次戊戌、𠊚攝國政、收復柴棍、駐蹕嘉定
585. 典𢆥己亥、務春𣎃𠀧、官軍收復、嘉定衛些
589. 庚子元年、𠊚即王位、用黎景興、年號甲子
597. 卞差多棱、保護東宮、戈吀大法、兵執共
601. 大法𣅶、𡗉役諸朱、𢧚翁多棱、窒𢷮𢜝
605. 卞東宮 、阻衛印度、𠸼英㛪伴、 𠄩翁官武
609. 𠸜多、吏貝呢𠲖、𠄩隻艚兵、沒團捁衛
625. 吏差多、戈小呂宋、共處澳門、𧷸艚𧷸銃
633. 敕朱曼槐、蜍𠓨顯忠、監牧多棱、晉爵郡公
641. 計自奔播、祝㐌𨒒秋、𣎃延𢆥辰、𠊚在土硃
645. 戈暹求援、𤤰暹援朱、衛打西山、軍暹拱輸
649. 𠊚吏戈暹、於望閣城、傳共各將、田募兵
665. 岳嘆共惠、䏦𤇤㘨䏧、惠𧡊困穷、買朱講和
669. 當欺惠岳、英㛪打饒、翁宋福淡、典暹𠳚奏
681. 差武文壬、兵𦋦打、𥙩城昇竜、𣩂𠸜阮整
705. 清差士毅、率滿漢兵、復黎除賊、済度生灵
713. 阮惠𦖑報、𤼸書吀降、士毅信𥙩、疎率防閑
717. 槊旗尺壳、𣈘𣌉更殘、阮惠別邒、督率軍官
721. 建元即位、𥊢𦋦沒塘、典壘玉囘、艚拯朱𨖅
725. 打共軍艚、破艚散荒、軍艚輸𧼋、𨆢衛南関
733. 清別奸欺、𢪀打拯邒、之朋朱𠫾、𢖮消边釁
737. 黎主典清、吏吀援兵、乾隆空朱、崩在燕京
741. 𢆥子𢆥丑、惠岳𣩂連、官軍收復、平定富安
745. 𡨺城平定、將賊𦋦投、𠊚差武性、吏貝從周
749. 𠄩𠊚𦋦飭、𡨺城尼、勇耀將賊、軍典圍
753. 𠊚傳武性、補城𦋦外、武性𤼸疏、奏密共𠊚
757. 低𡗉軍賊、外化空虛、吀沛乘机、𦋦𥙩京師
761. 酉𣎃𠄼、𠊚率大兵、𠓨思賢、克復京
765. 差黎文悅、救援武性、引兵急𠓨、解圍平定
769. 平定城陷、消息買別、尊性從周、進暄死節
773. 各官調吀、即位建元、𠊚傳旨浪、賊群諸安
777. 耒典𢆥𡢐、親征城、生擒光纘、賊党盡平
781. 計自阮惠、𠓨打疃狔、𠅒𠫾復吏、別𨒒回
785. 復讐報㤪、志决拯差、方之聖德、文武𠁟才
789. 恬苓事𨔍、顯現𢙇𢙇、𩽉垠船吏、洡戈潙
793. 𩙌渃𠮾、外島𡧲𣾺、凜𣅶、危險隊尼
797. 擛安逆賊、𠀧𨒒𢆥𡗶、一統南越、坡𡎝𥪝外
801. 傳𡥵𡥙𡦫、別𠁀、朱咍暦數、𡗶協蹺𠊚
805. 𥋳𥪝史越、𡀯𡘯計𦋦、執整唎圭、演義歌
Việt Sử Diễn
Nghĩa Tứ Tự Ca
Nguyễn Văn Sâm và Nguyễn Hữu Vinh phiên âm
Ðây là bài ca viết
về một quảng dài lịch sử hơn mấy nghìn năm, từ thời vua Ðế Minh là cháu Viêm Ðế
Thần Nông thứ ba cho đến khoảng thời gian đức Thế Tổ của triều đình nhà ta lên
ngôi. Nay chọn những chuyện lớn viết thành diễn ca cho đàn bà con trẻ biết được
đôi điều, càng nhiều càng tốt, để khỏi làm trò cười cho thiên hạ vì không biết
chuyện tổ tiên. Dù rằng đã gắng công cố sức sửa sai, thêm bớt nhưng sợ vẫn còn
nhiều sai lầm, sơ sót. Mong người đọc lượng thứ cho.
Kính trình lên để xem xét.
Thái Tử Thiếu Bảo Hiệp Tá Ðại Học Sĩ quản lĩnh Học bộ Thượng Thư kiêm Lễ bộ Sự Vụ Quốc Sử Quán Tổng Tài kiêm Quốc Tử Giám sung Cơ Mật Viện đại thần Khánh Mỹ Tử Tín Trai Hồ Tướng công.
PHÊ:
Lời văn đơn giản nhưng đầy đủ chi tiết, đây là một việc làm có công lớn đối với lịch sử nước Việt của bậc vương giả.
Tháng giêng năm Khải Ðịnh thứ sáu.
Kính trình lên để xem xét.
Thái Tử Thiếu Bảo Hiệp Tá Ðại Học Sĩ quản lĩnh Học bộ Thượng Thư kiêm Lễ bộ Sự Vụ Quốc Sử Quán Tổng Tài kiêm Quốc Tử Giám sung Cơ Mật Viện đại thần Khánh Mỹ Tử Tín Trai Hồ Tướng công.
PHÊ:
Lời văn đơn giản nhưng đầy đủ chi tiết, đây là một việc làm có công lớn đối với lịch sử nước Việt của bậc vương giả.
Tháng giêng năm Khải Ðịnh thứ sáu.
Việt Sử Diễn Nghĩa Tứ Tự Ca
Hồng Thiết, tự Lục Khanh, con thứ 18 của Tuy Lý Vương, Công Bộ Thị Lang, kiêm chức Nghị viên của hội Vệ Sinh.Cùng diễn dịch.
1. Người nước Nam
ta, Phải coi sử Việt, Cùng đầu đến đuôi, Chuyện chi cho biết
5. Từ họ Hồng Bàng, Làm Kinh Dương Vương, Vốn dòng Viêm đế, Phong tại nam phương
9. Con là Lạc Long, Cháu là Hùng Vương, Từ ấy hiệu nước, Gọi là Văn Lang
13. Truyền mười tám đời, Đều xưng Hùng Vương, Đặng hai nghìn sáu, Hăm hai năm trường
17. Thục An Dương Vương, Diệt nước Văn Lang, Xưng rằng Âu Lạc, Nối họ Hồng Bàng
21. Vua Thục lúc ấy, xây đắp Loa thành, xây lên bổ xuống, ai nấy đều kinh
25. Vua Thục khấn vái, Thiên địa thần linh, Bỗng thấy một người, Kim Quy hiện hình
29. Nói cùng vua Thục, Sự tích đành rành, Trong núi Thất Diệu, Nhiều loài yêu tinh
33. Oan hồn uất kết, Nên nỗi hoành hành, Xin phải trừ đi, Mới xây đặng thành
37. Vua Thục nghe theo, Nửa tháng thành rồi, Khi ấy Kim Quy, Từ biệt xin lui
41. Vua Thục nói lại, Nhờ ông đến đây, Trăm điều an ổn, Còn ngại chút này
45. Thành trì nhà nước, Nay đã vững vàng, Mai sau có giặc, Lấy chi dẹp loàn
49. Kim Quy nghe nói, Cho một móng chân, Nhắn đem làm ná, Linh động khôn ngần
53. Bắn ra một phát, Giết giặc muôn thằng, Gọi là thần nỏ, Ai địch cho bằng
57. Tần nghe cõi Nam, Rất nhiều châu ngọc, Bèn sai Triệu Đà, Đem quân đánh Thục
61. Thục có thần nỏ, Ðà địch đâu qua, Quân Triệu cùng khốn, Ðà xin giảng hòa
65. Cho con Trọng Thủy, Ðến hỏi Mỵ Châu, Trọng Thủy khôn khéo, Thục vuơng gả cho
69. Trọng Thủy thừa cơ, Coi máy thần nỏ, Mỵ Châu tin chàng, Cho chàng coi ngó
73. Không hay Trọng Thủy, Rắp sẵn mưu gian, Coi qua ngó lại, Ðổi móng rùa vàng
77. Nói cùng Mỵ Châu, Về thăm cha mẹ, Lòng toan đánh Thục, Mưu sâu tình tệ
81. Giả đò yêu dấu, Nghĩ trước suy sau, Một mai ly loạn, Biết nàng ở đâu
85. Mỗi người mỗi xứ, Ruột héo lòng đau, Vợ chồng cách trở, Ðời nào thấy nhau
89. Mỵ Châu thưa rằng, Thiếp có nệm lông, Đem theo bên mình, Há dám tiếc công
93. Thiếp đi đường nào, Bỏ ra đường ấy, Chàng đã có lòng, Trước sau cũng thấy
97. Trọng Thủy về đến, Quân Triệu kéo sang, Vua Thục cười nói, Triệu Ðà cả gan
101. Không hay thần nỏ, Máy đã mất đi, Ðem quân ra đánh, Thua chạy tức thì
105. Vua Thục chẳng biết, Rể xảo con ngu, Tin dùng Trọng Thủy, Yêu dấu Mỵ Châu
109. Ðến chừng nguy hiểm, Cầu cứu Kim Quy, Kim Quy ra nói, Giặc tại cô này
113. Mỵ Châu than thở, Trọng Thủy gian khi, Thục Vương biết đặng, Tuốt gươm giết ngay
117. Quân Triệu thừa thắng, Kéo đến liền ngày, Vua Thục thua chạy, Bèn diệt Thục đi
121. Triệu Võ đế Ðà, Gồm nước Âu Lạc, Truyền đặng năm đời, Triệu suy Hán diệt
125. Người Hán từ ấy, Quận huyện nước ta, Sai quan qua trị, Tô Ðịng gian tà
129. Người xứ An Minh, Trưng Trắc Trưng Nhị, Tuy rằng nữ nhi, Thiệt là tài trí
133. Phục thù khởi nghĩa, Đuổi Tô Định về, Giao Châu một cõi, Thâu phục sơn khê
137. Hán sai Mã Viện, Kéo thẳng binh qua, Ðánh cùng Trưng Vương, Lại lấy đất ta
141. Trưng Vương em chị, Tuẫn nạn một nhà, Xưa nay trung nghĩa, Tiếng lành đồn xa
145. Mã Viện đánh rồi, Bèn dựng đồng trụ, Lấy đất Nam giao, Giới hạn tới đó
149. Ðến sau Sĩ Nhiếp, Qua trấn Giao Châu, Mở mang văn vận, Từ ấy làm đầu
153. Thương dân dạy vẽ, Lễ nghĩa văn chương, Dân đều yêu kính, Tôn rằng Sĩ vương
157. Nam giao bờ cõi, Từ Hán đến Lương, Thuộc vào Trung Quốc, Biết mấy năm trường
161. Người nước Nam ta, Có ông Lý Bí (Bôn), Sinh xứ Thái Bình, Ða tài đa trí
165. Lương sai Bá Tiên, Ðánh cùng Lý Bí, Tô Lịch Gia Ninh, Lương đều hơn Lý
169. Lý đòi Quang Phục, Giao cho binh quyền, Lui về Liêu Ðộng, Tỵ nạn một phen
173. Ông Triệu Quang Phục, Ðặng móng rồng vàng, Ðánh đâu hơn đó, Xưng Triệu Việt Vương
177. Sau Lý Phật Tử, Đánh Triệu không xong, Cho con làm rể, Trộm lấy móng rồng
181. Quân Lý kéo đến, Cùng Triệu giao phong, Triệu vương thua chạy, Nhảy xuống biển đông
185. Phật Tử diệt Triệu, Ðô tại Phong Châu, Tùy sai Lưu Phương, Họa phúc dỗ cùng
189. Vua tôi Phật Tử, Ðều ra chịu đầu, Nam giao bờ cõi, Về Tuỳ tóm thâu
193. Đến Đường Cao Tôn, Cải hiệu An Nam, Đặt quan đô hộ, Lắm kẻ bạo tham
197. Truyền tới Ðức Tôn, Ðô hộ Chánh Bình, Gian ngoan hà khắc, Tàn hại sanh linh
201. Người xứ Ðường Lâm, Tên là Phùng Hưng, Gia tư hào phú, Trí dũng ai bằng
205. Dấy binh vây thành, Giết tên Chánh Bình, Thu phục Xích huyện,Tế độ thương sinh
209. Giàu sang dáy (nháy) mắt, Giấc bướm mơ màng, Phùng An truy tôn, Bố Cái Ðại Vương
213. Phùng An nối nghiệp, Nghe theo Triệu Xương, Nói điều lợi hại, Từ ấy đầu Ðường
217. Ðường Chiêu Tuyên đế, Hồng Châu Khúc Hạo, Tự xưng Tiết Ðộ, Nam Hán thông hiếu
221. Ðường Lâm Ngô Quyền, Thừa khi đương loạn, Dấy binh phục thù, Giết tên Công Tiện
225. Nam Hán Lưu Cung, Sai con Hoằng Tháo, Từ sông Bạch Ðằng, đem binh đến cứu
229. Ngô Quyền phá Hán, Tự xưng Ngô Vương, Ở ngôi sáu năm, Một giấc hoàng lương
233. Di chúc em vợ, tên là Tam Kha, Tam Kha tiếm vị, Xương Ngập trốn xa
237. Khá khen Xương Văn, Đánh đuổi Tam Kha, Bèn rước anh về, Cùng trị nước nhà
241. Xương Văn ra đánh, Đường Nguyễn Thái Bình, Nửa đêm trúng tên, Hoăng tại trong doanh
245. Từ ấy phiên trấn, Chiếm cứ phân vân, Trước sau mười hai, Ðều xưng sứ quân
249. Ông Ðinh Bộ Lĩnh, Người xứ Hoa Lư, Hiệu rằng Vạn Thắng, Trí dũng có dư
253. Dẹp yên các trấn, Sắp đặt trăm quan, Nước xưng Cồ Việt, Đô đóng Trường An
257. Ðinh Hoàng bị thí, Ðinh Toàn nối lên, Chỉn có hai đời, Ðặng mười ba năm
261. Tướng quân Lê Hoàng, Tư thông Dương thị, Quân Tống sang xâm, Lê Hoàng tức vị
265. Lê đặng nối Ðinh, Bởi vì Dương hậu, Bất nghĩa bất trung, Muôn năm còn xấu
269. Ðại Hành băng tồ, Trung Tôn tức vị, Mới đặng ba ngày, Ngọa Triều nghịch thí
273. Ngọa Triều gian xảo, Tàn bạo tính thành, Ðao sơn kiếm thụ, Bày đặt nghiêm hình
277. Thí nghịch soán đoạt, Lên ngôi bốn năm, Say mê tửu sắc, Bịnh nặng chết liền
281. Con là Lê Sạ, Tuổi nhỏ tài hèn, Các quan bèn rước, Công Uẩn tôn lên
285. Lý tổ tức vị, Kiến nguyên Thuận Thiên, Suốt mười tám năm, Ngoài lặng trong yên
289. Thái Tôn thủ thành, Hữu đễ rất hiền, Anh em phản nghịch, ân pháp vẹn toàn
293. Ðến đời Anh Tôn, Phụ Chánh Hiến Thành, Một lòng trung nghĩa, Chẳng khác Khổng Minh
297. Truyền đến Huệ Tôn, Không có con trai, Con gái Chiêu Hoàng, Thừa thống nối ngôi
301. Có tên Trần Cảnh, Lịch sự lạ dường, Vào hầu Chiêu Hoàng, Chiêu Hoàng rất thương
305. Thủ Ðộ bày mưu, Chiêu Hoàng nhường vị, Trần Cảnh lên ngôi, Trần bèn nối Lý
309. Thái Tôn Thánh Tôn, Truyền đến Nhân Tôn, Ba đời thịnh trị, Phẳng lặng ngoài trong
313. Nguyên sai đại tướng, Tên là Thoát Hoan, Ðến hãm kinh thành, Từ xứ Bắc Giang
317. Tôn thần trung nghĩa, Hưng Ðạo Ðại Vương, Bạch Ðằng một trận, Phá giặc tan hoang
321. Từ Trần Thái Tôn, Ðến Trần Thiếu Ðế, Thiếu Ðế thơ ngây, Quý Ly soán vị
325. Trần mười hai vua, Trăm bảy dư niên, Hậu Trần hai vua, Bảy năm mất liền
329. Quý Ly soán Trần, Nước hiệu Ðại Ngu, Truyền ngôi Hán Thương, Gìn giữ cơ đồ
333. Cha con Quý Ly, Lên ngôi sáu năm, Ðánh cùng Trương Phụ, Ðều bị sinh cầm
337. An Nam một cõi, Từ ấy về Minh, Quan Minh tham bạo, Dân bất liêu sinh
341. Lam Sơn Lê Lợi, Bèn dấy nghĩa binh, Thương hại dân ta, Ðánh đuổi quan Minh
345. Gian nguy trăm trận, Thu phục hai kinh, Mười năm bình định, Bốn bể trừng thanh
349. Thái Tôn nối trị, Tánh vốn thông minh, Hiềm vì mê sắc, Nên nỗi thương sinh
353. Nhân Tôn xung ấu, Thái hậu thuỳ liêm, Nghi Dân làm loạn, Vào thành nửa đêm
357. Nhân Tôn ngộ hại, Nghi Dân tiếm lên, Triều đình tôi cũ, Giết hại liền liền
361. Lê Xí Ðinh Liệt, Xướng nghĩa phế ngay, Bèn rước Gia Vương, Tôn lên liền ngày
365. Thánh Tôn tức vị, Gìn giữ mối giềng, Ở ngôi trí trị, Ba tám năm trường
369. Sử xưng minh chủ, Tài đức khác thường, Ví cùng Trung Quốc, Võ đế Văn hoàng
373. Hiến Tôn Túc Tôn, Truyền đến Quỷ Vương, Tin dùng ngoại thích, Tàn hại trung lương
377. Ông Nguyễn Văn Lang, Cùng ông Giản Tu, Ðem quân tam phủ, Ra đánh đông đô
381. Quỷ Vương tự vẫn, Trư Vương nối lên, Ở ngôi tám năm, Duy Sản thí liền
385. Chiêu Tôn tức vị, Ðăng Dung lộng quyền, Lòng toan soán đoạt, Chiêu Tôn ưu phiền
389. Nửa đêm xa giá, Qua xứ Sơn Tây, Ðăng Dung không kể, Chẳng rước vua về
393. Lập hoàng đệ Xuân, Tại tỉnh Hải Dương, Chiêu Tôn về kinh, Ðăng Dung cướp ngang
397. Chiêu Tôn thua chạy, Trịnh Tuy cứu giá, Nghe gièm giết hại, Trịnh Tuy tướng tá
401. Trịnh Tuy hờn giận, Hộ giá vào Thanh, Ðăng Dung bèn rước, Hoàng đệ về kinh
405. Chiêu Tôn bị bắt, Ðăng Dung thí ngay, Truyền cho hoàng đệ, Thiền vị tức thì
409. Họ Mạc soán Lê, Qua cáo Minh liền, Dâng vàng dâng đất, Minh cho chức quyền
413. Ðăng Dung lên ngôi, Mới đặng ba năm, Cho con Ðăng Doanh, Tức vị cải nguyên
417. Truyền con với cháu, Mạc Hải Mạc Nguyên, Ðến chắt Mậu Hợp, Năm đời mất liền
421. Ðức triệu tổ ta, Trước làm quan Lê, Thấy Mạc tiếm thiết, Lo sợ trăm bề
425. Ðánh Mạc chưa đặng, Lánh vào Ai Lao, Vua Lào Xạ Ðẩu, Cho ở Sầm Châu
429. Chiêu binh mãi mã, Tìm kiếm dòng Lê, Gặp được Trang Tôn, Xa giá rước về
433. Biết ông Trang Tôn, Là con Chiêu Tôn, Ngài bèn lập lên, Lập rồi tiến công
437. Ngài thấy Trịnh Kiểm, Thao lược tinh thông, Gả con Ngọc Bảo, Cho làm tiên phong
441. Ðánh cùng họ Mạc, Tại xứ Lôi Dương, Quân ta xung đột, Quân Mạc tan hoang
445. Gần xa khen ngợi, Hào kiệt văn phong, Kinh lược Thanh Nghệ, Theo ngọn cờ hồng
449. Quân đến Tây đô, Tướng Mạc ra đầu, Tên là Chấp Nhất, Kế hiểm mưu sâu
453. Thấy ngài trí dũng, Liệu địch không qua, Đặt bày yến tiệc, Bỏ độc vào trà
457. Rước mời gắn bó, Triệu tổ chẳng ngờ, Nửa đêm về doanh, Tướng tinh phút lờ
461. Phù Lê diệt Mạc, Công nghiệp gần thành, Trang Tôn nghe tin, Thương tiếc hãi kinh
465. Giao cho Trịnh Kiểm, Tiết chế các doanh, Ðô soái tướng tá, Ðánh cùng mạc binh
469. Con thứ hai ngài, Là đức Thái Tổ, Công tuy đã nhiều, Tuổi còn đương nhỏ
473. Nối theo chí trước, Phò Lê rất trung, Trịnh Kiểm nghi kỵ, Lo sợ khôn cùng
477. Nói cùng Ngọc Bảo, Vào trấn phía trong, Ô Châu ác địa, Thiệt cũng cam lòng
481. Trịnh Kiểm nghĩ rằng, Ô Châu một chỗ, Tâu cho vào trấn, Trước sau cũng khổ
485. Thái tổ thấy chỉ, Lãnh thuyền kéo vô, Đến nơi Quảng Trị, Gây dựng cơ đồ
489. Muôn năm đế nghiệp, Từ ấy mà ra, Thần truyền thánh kế, Mở mang nước ta
493. Mới đặng chín đời, Ðến đời Hiếu Ðịnh, Ngoại thích Phúc Loan, Chuyên quyền loạn chánh
497. Tây Sơn Nguyễn Nhạc, Ở đất Bình Ðịnh, Bèn cùng Tập Ðình, Dẫn binh ra đánh
501. Trịnh sai Ngũ Phúc, Cùng kéo binh vô, Kể tội Phúc Loan, Xin phải nên tru
505. Các quan vâng chỉ, Ðem nạp Phúc Loan, Ai hayNgũ Phúc, Nói khác mưu gian
509. Lại đưa thư rằng, Anh em Nguyễn Nhạc, Chiếm cứ Quy Nhơn, Tung hoành bạo ngược
513. Xin đem quân Trịnh, Giúp với quan quân, Ðồng lòng hết sức, Trừ giặc cứu dân
517. Ngũ Phúc gian kế, Duệ Tôn chưa nghe, Quân Trịnh xông tới, Quân ta lui về
521. Ðánh nhau mấy trận, Quan quân đều thua, Ngài vào Quảng Nam, Bèn mất kinh đô
525. Gặp quân Nguyễn Nhạc, Ðến từ Bình Ðịnh, Trước sau đều giặc, Duệ Tôn nam hạnh
529. Lập hoàng tôn Dương, Xưng rằng Ðông cung, Trấn tỉnh Quảng Nam, Xem xét ngoài trong
533. Nhạc sai Tập Ðình, Ðem quân đến đánh, Bèn rước Ðông cung, Ðem về Bình Ðịnh
537. Nửa đêm Ðông cung, Ði theo thương thuyền, Chạy vào Gia Ðịnh, Năm ngày đến liền
541. Trịnh Hoàng Ngũ Phúc, Kéo thẳng binh vô, Ðành cùng Nguyễn Nhạc, Quân Nhạc đều thua
545. Nhạc bèn khiến sứ, Tới yết Trịnh Doanh, Xin cùng Ngũ Phúc, Tình nguyện đầu thành
549. Trịnh cho Nguyễn Nhạc, Làm chức Tướng quân, Lại sai Bùi Ðạt, Vào trấn Phú Xuân
553. Duệ Tôn lúc ấy, Gặp hoàng tôn Dương, Bèn thiền vị cho, Xưng Tân Chánh Vương
557. Nhạc sai Huệ Lữ, Vào đánh Sài Gòn, Quân giặc tàn bạo, Quân ta hao mòn
561. Vương qua Hương Ðôi, Ngài tới Long Xuyên, Giặc bèn đuổi theo, Ðều tuẫn nạn liền
565. Ðức Cao hoàng ta, Ði theo Duệ Tôn, Gian nguy lắm lúc, Lao khổ khôn cùng
569. Duệ Tôn vẫn biết, Tài đức hơn người, Phục cơ nghiệp cũ, Thường nói cùng ngài
573. Gặp cơn quốc biến, Còn đương thiếu niên, Nguyên soái nhiếp chính, Các tướng tôn lên
577. Năm thứ Mậu Tuất, Ngài nhiếp quốc chính, Thu phục Sài Gòn, Trú tất Gia Ðịnh
581. Năm ấy tháng năm, Nguyễn Huệ vào đánh, Quân ta đều thua, Bèn mất Gia định
585. Ðến năm Kỷ Hợi, Mùa xuân tháng ba, Quan quân thu phục, Gia định về ta
589. Canh Tý nguyên niên, Ngài tức vương vị, Dùng Lê Cảng Hưng, Niên hiệu Giáp Tý
593. Năm Dần tháng hai, Nguyễn Huệ nhập khấu, Ngài ra Phú Quốc, Côn Lôn các đảo
597. Bèn sai Ða Lăng, Bảo hộ Ðông cung, Qua xin Ðại Pháp, Ðem binh giúp cùng
601 Đại Pháp lúc ấy, Nhiều việc chưa cho, Nên ông Đa Lăng, Rất đỗi sợ lo
605. Bèn đem Ðông Cung, Trở về Ấn Ðộ, Mời anh em bạn, Hai ông quan võ
609. Tên là Ða Du, Lại với Ni Ê, Hai chiếc tàu binh, Một đoàn kéo về
613. Ngài thấy Ðông cung, Cùng ông Ða Lăng, Ða Du Ni Ê, Mừng rỡ khôn ngần
617. Lúc trước Ða Lăng, Có tiến mấy ông, Ðều người Ðại Pháp, Trung nghĩa khôn cùng
621. Buổi ấy lấy đặng, Hạ du Gia định, Sai ông Ni Ê, Giữ gìn mấy tỉnh
625. Lại sai Ða Du, Qua tiểu Lữ Tống, Cùng xứ Áo Môn, Mua tàu mua súng
629. Ông Tào Mạn Hoè, Thiệt là trung liệt, Ðánh cùng Nguyễn Huệ, Trận tiền tử tiết
633. Sắc cho Mạn Hoè, Thờ vào Hiển Trung, Giám Mu.c Ða Lăng, Tấn tước quận công
637. Lúc ấy theo ngài, Các quan Ðại Pháp, Ai có công lao, Ơn đền nghĩa đáp
641. Kể từ bôn ba, Chốc đã mười thu, Tháng giêng năm Thìn, Ngài tại Thổ Chu
645. Qua Xiêm cầu viện, Vua Xiêm viện cho, Về đánh Tây Sơn, Quân Xiêm cũng thua
649. Ngài lại qua Xiêm, Ở Vọng Các thành, Truyền cùng các tướng, Ðồn điền mộ binh
653. Năm Ngọ Nguyễn Huệ, Ra đánh Bắc Kỳ, Phá tan quân Trịnh, Yết kiến vua Lê
657. Hiển Tôn run sợ, Thụ bệnh băng tồ, Huệ lập Chiêu Thống, Rồi kéo binh vô
661. Nguyễn Nhạc xưng đế, Chiếm cứ Bình Ðịnh, Nguyễn Huệ truyền hịch, Dẫn binh vào đánh
665. Nhạc than cùng Huệ, Thịt xáo nồi da, Huệ thấy khốn cùng, Mới cho giảng hòa
669. Ðương khi Huệ Nhạc, Anh em đánh nhau, Ông Tống Phước Ðạm, Ðến Xiêm gửi tấu
673. Gia Ðịnh sơ phòng, Xin Ngài về đánh, Tháng tám năm Thân, Thu phục Gia Ðịnh
677. Huệ nghe Nguyễn Chỉnh, Ở đất Bắc Kỳ, Giả làm trung nghĩa, Diệt Trịnh phò Lê
681. Sai Vũ Văn Nhậm, Ðem binh ra đánh, Lấy thành Thăng long, Giết tên Nguyễn Chỉnh
685. Lạ thay Nguyễn Huệ, Lại ra Long Biên, Văn Nhậm tới hầu, Truyền đem chém liền
689. Nguyễn Huệ lúc ấy, Lấy hết Bắc kỳ, Giết rồi Văn Nhậm, Đòi các quan Lê
693. Truyền cho Tiến Tôn, Đều dâng một biểu, Ông Nguyễn Huy Trạc, Uống thuốc chẳng chịu
697. Huệ thấy Huy Trạc, rất nỗi kinh nghi, Quyền lập Duy Cẩn, Ðem quân trở về
701. Giao Ngô văn Sở, Gìn giữ Bắc thành, Lê hậu qua Tàu, Cáo cùng đại Thanh
705. Thanh sai Sĩ Nghị, Suất Mãn Hán binh, Phục Lê trừ tặc, Tế độ sanh linh
709. Sĩ Nghị mới đến, Tuyên phong Lê hoàng, Sửa sang rường mối, Sắp đặt quân quan
713. Nguyễn Huệ nghe báo, Dâng thư xin hàng, Sĩ Nghị tin lấy, Sơ suất phòng gian
717. Giáo cờ xếch xác, Ðêm khuya canh tàn, Nguyễn Huệ biết đặng, đốc suất quân quan
721. Kiến nguyên tức vị, Thẳng ra một đường, Ðến lũy Ngọc Hồi, Tàu chẳng cho sang
725. Ðánh cùng quân Tàu, Phá Tàu tan hoang, Quân Tàu thua chạy, Lui về Nam quan
729. Nguyễn Huệ khiến sứ, Qua Tàu tạ tội, Xin cho chức quyền, Giữ gìn bờ cõi
733. Thanh biết gian khi, Nghĩ đánh chẳng đặng,Chi bằng cho đi, Ắt tiêu bên hấn
737. Lê chúa đến Thanh, Lại xin viện binh, Càn Long không cho, Băng tại Yên kinh
741. Năm Tý năm Sửu, Huệ Nhạc chết liền, Quan quân thu phục, Bình Ðịnh Phú Yên
745. Giữ thành Bình Ðịnh, Tướng giặc ra đầu, Ngài sai Võ Tánh, Lại với Tùng Chu
749. Hai người ra sức, Gìn giữ thành này, Dũng Diệu tướng giặc, Ðem quân đến vây
753. Ngài truyền Võ Tánh, Bỏ thành ra ngoài, Võ Tánh dâng sớ, Tâu mật cùng ngài
757. Ðây nhiều quân giặc, Ngoài Huế không hư, Xin phải thừa cơ, Ra lấy kinh sư
761. Năm Dậu tháng năm, Ngài suất đại binh, Vào cửa Tư Hiền, Khắc phục cựu kinh
765. Sai Lê Văn Duyệt, Cứu viện Võ Tánh, Dẫn binh gấp vào, Giải vây Bình Ðịnh
769. Bình Ðịnh thành hãm, Tiêu tức mới biết, Tôn Tánh Tùng Châu, Tiến huyên tử tiết
773. Các quan đều xin, Tức vị kiến nguyên, Ngài truyền chỉ rằng, Giặc còn chưa yên
777. Rồi đến năm sau, Thân chinh Bắc thành, Sinh cầm Quang Toản, Tặc đảng tận bình
781. Kể từ Nguyễn Huệ, Vào đánh Đồng Nai, Mất đi phục lại, Biết mấy mươi hồi
785. Phục thù báo oán, Chí quyết chẳng sai, Phương chi thánh đức, Văn võ gồm tài
789. Điềm lành sự lạ, Hiển hiện hoài hoài, Sấu ngăn thuyền lại, Trâu lội qua vời
793. Gió to nước ngặt, Ngoài đảo giữa khơi, Gian nan lắm lúc, Nguy hiểm đòi nơi
797. Dẹp yên nghịch tặc, Ba mươi năm trời, Nhất thống Nam Việt, Bờ cõi trong ngoài
801. Truyền con cháu chắt, Biết mấy muôn đời, Cho hay lịch số, Trời hiệp theo người805. Coi trong sử Việt, Chuyện lớn kể ra, Chấp chỉnh lời quê, Làm diễn nghĩa ca
5. Từ họ Hồng Bàng, Làm Kinh Dương Vương, Vốn dòng Viêm đế, Phong tại nam phương
9. Con là Lạc Long, Cháu là Hùng Vương, Từ ấy hiệu nước, Gọi là Văn Lang
13. Truyền mười tám đời, Đều xưng Hùng Vương, Đặng hai nghìn sáu, Hăm hai năm trường
17. Thục An Dương Vương, Diệt nước Văn Lang, Xưng rằng Âu Lạc, Nối họ Hồng Bàng
21. Vua Thục lúc ấy, xây đắp Loa thành, xây lên bổ xuống, ai nấy đều kinh
25. Vua Thục khấn vái, Thiên địa thần linh, Bỗng thấy một người, Kim Quy hiện hình
29. Nói cùng vua Thục, Sự tích đành rành, Trong núi Thất Diệu, Nhiều loài yêu tinh
33. Oan hồn uất kết, Nên nỗi hoành hành, Xin phải trừ đi, Mới xây đặng thành
37. Vua Thục nghe theo, Nửa tháng thành rồi, Khi ấy Kim Quy, Từ biệt xin lui
41. Vua Thục nói lại, Nhờ ông đến đây, Trăm điều an ổn, Còn ngại chút này
45. Thành trì nhà nước, Nay đã vững vàng, Mai sau có giặc, Lấy chi dẹp loàn
49. Kim Quy nghe nói, Cho một móng chân, Nhắn đem làm ná, Linh động khôn ngần
53. Bắn ra một phát, Giết giặc muôn thằng, Gọi là thần nỏ, Ai địch cho bằng
57. Tần nghe cõi Nam, Rất nhiều châu ngọc, Bèn sai Triệu Đà, Đem quân đánh Thục
61. Thục có thần nỏ, Ðà địch đâu qua, Quân Triệu cùng khốn, Ðà xin giảng hòa
65. Cho con Trọng Thủy, Ðến hỏi Mỵ Châu, Trọng Thủy khôn khéo, Thục vuơng gả cho
69. Trọng Thủy thừa cơ, Coi máy thần nỏ, Mỵ Châu tin chàng, Cho chàng coi ngó
73. Không hay Trọng Thủy, Rắp sẵn mưu gian, Coi qua ngó lại, Ðổi móng rùa vàng
77. Nói cùng Mỵ Châu, Về thăm cha mẹ, Lòng toan đánh Thục, Mưu sâu tình tệ
81. Giả đò yêu dấu, Nghĩ trước suy sau, Một mai ly loạn, Biết nàng ở đâu
85. Mỗi người mỗi xứ, Ruột héo lòng đau, Vợ chồng cách trở, Ðời nào thấy nhau
89. Mỵ Châu thưa rằng, Thiếp có nệm lông, Đem theo bên mình, Há dám tiếc công
93. Thiếp đi đường nào, Bỏ ra đường ấy, Chàng đã có lòng, Trước sau cũng thấy
97. Trọng Thủy về đến, Quân Triệu kéo sang, Vua Thục cười nói, Triệu Ðà cả gan
101. Không hay thần nỏ, Máy đã mất đi, Ðem quân ra đánh, Thua chạy tức thì
105. Vua Thục chẳng biết, Rể xảo con ngu, Tin dùng Trọng Thủy, Yêu dấu Mỵ Châu
109. Ðến chừng nguy hiểm, Cầu cứu Kim Quy, Kim Quy ra nói, Giặc tại cô này
113. Mỵ Châu than thở, Trọng Thủy gian khi, Thục Vương biết đặng, Tuốt gươm giết ngay
117. Quân Triệu thừa thắng, Kéo đến liền ngày, Vua Thục thua chạy, Bèn diệt Thục đi
121. Triệu Võ đế Ðà, Gồm nước Âu Lạc, Truyền đặng năm đời, Triệu suy Hán diệt
125. Người Hán từ ấy, Quận huyện nước ta, Sai quan qua trị, Tô Ðịng gian tà
129. Người xứ An Minh, Trưng Trắc Trưng Nhị, Tuy rằng nữ nhi, Thiệt là tài trí
133. Phục thù khởi nghĩa, Đuổi Tô Định về, Giao Châu một cõi, Thâu phục sơn khê
137. Hán sai Mã Viện, Kéo thẳng binh qua, Ðánh cùng Trưng Vương, Lại lấy đất ta
141. Trưng Vương em chị, Tuẫn nạn một nhà, Xưa nay trung nghĩa, Tiếng lành đồn xa
145. Mã Viện đánh rồi, Bèn dựng đồng trụ, Lấy đất Nam giao, Giới hạn tới đó
149. Ðến sau Sĩ Nhiếp, Qua trấn Giao Châu, Mở mang văn vận, Từ ấy làm đầu
153. Thương dân dạy vẽ, Lễ nghĩa văn chương, Dân đều yêu kính, Tôn rằng Sĩ vương
157. Nam giao bờ cõi, Từ Hán đến Lương, Thuộc vào Trung Quốc, Biết mấy năm trường
161. Người nước Nam ta, Có ông Lý Bí (Bôn), Sinh xứ Thái Bình, Ða tài đa trí
165. Lương sai Bá Tiên, Ðánh cùng Lý Bí, Tô Lịch Gia Ninh, Lương đều hơn Lý
169. Lý đòi Quang Phục, Giao cho binh quyền, Lui về Liêu Ðộng, Tỵ nạn một phen
173. Ông Triệu Quang Phục, Ðặng móng rồng vàng, Ðánh đâu hơn đó, Xưng Triệu Việt Vương
177. Sau Lý Phật Tử, Đánh Triệu không xong, Cho con làm rể, Trộm lấy móng rồng
181. Quân Lý kéo đến, Cùng Triệu giao phong, Triệu vương thua chạy, Nhảy xuống biển đông
185. Phật Tử diệt Triệu, Ðô tại Phong Châu, Tùy sai Lưu Phương, Họa phúc dỗ cùng
189. Vua tôi Phật Tử, Ðều ra chịu đầu, Nam giao bờ cõi, Về Tuỳ tóm thâu
193. Đến Đường Cao Tôn, Cải hiệu An Nam, Đặt quan đô hộ, Lắm kẻ bạo tham
197. Truyền tới Ðức Tôn, Ðô hộ Chánh Bình, Gian ngoan hà khắc, Tàn hại sanh linh
201. Người xứ Ðường Lâm, Tên là Phùng Hưng, Gia tư hào phú, Trí dũng ai bằng
205. Dấy binh vây thành, Giết tên Chánh Bình, Thu phục Xích huyện,Tế độ thương sinh
209. Giàu sang dáy (nháy) mắt, Giấc bướm mơ màng, Phùng An truy tôn, Bố Cái Ðại Vương
213. Phùng An nối nghiệp, Nghe theo Triệu Xương, Nói điều lợi hại, Từ ấy đầu Ðường
217. Ðường Chiêu Tuyên đế, Hồng Châu Khúc Hạo, Tự xưng Tiết Ðộ, Nam Hán thông hiếu
221. Ðường Lâm Ngô Quyền, Thừa khi đương loạn, Dấy binh phục thù, Giết tên Công Tiện
225. Nam Hán Lưu Cung, Sai con Hoằng Tháo, Từ sông Bạch Ðằng, đem binh đến cứu
229. Ngô Quyền phá Hán, Tự xưng Ngô Vương, Ở ngôi sáu năm, Một giấc hoàng lương
233. Di chúc em vợ, tên là Tam Kha, Tam Kha tiếm vị, Xương Ngập trốn xa
237. Khá khen Xương Văn, Đánh đuổi Tam Kha, Bèn rước anh về, Cùng trị nước nhà
241. Xương Văn ra đánh, Đường Nguyễn Thái Bình, Nửa đêm trúng tên, Hoăng tại trong doanh
245. Từ ấy phiên trấn, Chiếm cứ phân vân, Trước sau mười hai, Ðều xưng sứ quân
249. Ông Ðinh Bộ Lĩnh, Người xứ Hoa Lư, Hiệu rằng Vạn Thắng, Trí dũng có dư
253. Dẹp yên các trấn, Sắp đặt trăm quan, Nước xưng Cồ Việt, Đô đóng Trường An
257. Ðinh Hoàng bị thí, Ðinh Toàn nối lên, Chỉn có hai đời, Ðặng mười ba năm
261. Tướng quân Lê Hoàng, Tư thông Dương thị, Quân Tống sang xâm, Lê Hoàng tức vị
265. Lê đặng nối Ðinh, Bởi vì Dương hậu, Bất nghĩa bất trung, Muôn năm còn xấu
269. Ðại Hành băng tồ, Trung Tôn tức vị, Mới đặng ba ngày, Ngọa Triều nghịch thí
273. Ngọa Triều gian xảo, Tàn bạo tính thành, Ðao sơn kiếm thụ, Bày đặt nghiêm hình
277. Thí nghịch soán đoạt, Lên ngôi bốn năm, Say mê tửu sắc, Bịnh nặng chết liền
281. Con là Lê Sạ, Tuổi nhỏ tài hèn, Các quan bèn rước, Công Uẩn tôn lên
285. Lý tổ tức vị, Kiến nguyên Thuận Thiên, Suốt mười tám năm, Ngoài lặng trong yên
289. Thái Tôn thủ thành, Hữu đễ rất hiền, Anh em phản nghịch, ân pháp vẹn toàn
293. Ðến đời Anh Tôn, Phụ Chánh Hiến Thành, Một lòng trung nghĩa, Chẳng khác Khổng Minh
297. Truyền đến Huệ Tôn, Không có con trai, Con gái Chiêu Hoàng, Thừa thống nối ngôi
301. Có tên Trần Cảnh, Lịch sự lạ dường, Vào hầu Chiêu Hoàng, Chiêu Hoàng rất thương
305. Thủ Ðộ bày mưu, Chiêu Hoàng nhường vị, Trần Cảnh lên ngôi, Trần bèn nối Lý
309. Thái Tôn Thánh Tôn, Truyền đến Nhân Tôn, Ba đời thịnh trị, Phẳng lặng ngoài trong
313. Nguyên sai đại tướng, Tên là Thoát Hoan, Ðến hãm kinh thành, Từ xứ Bắc Giang
317. Tôn thần trung nghĩa, Hưng Ðạo Ðại Vương, Bạch Ðằng một trận, Phá giặc tan hoang
321. Từ Trần Thái Tôn, Ðến Trần Thiếu Ðế, Thiếu Ðế thơ ngây, Quý Ly soán vị
325. Trần mười hai vua, Trăm bảy dư niên, Hậu Trần hai vua, Bảy năm mất liền
329. Quý Ly soán Trần, Nước hiệu Ðại Ngu, Truyền ngôi Hán Thương, Gìn giữ cơ đồ
333. Cha con Quý Ly, Lên ngôi sáu năm, Ðánh cùng Trương Phụ, Ðều bị sinh cầm
337. An Nam một cõi, Từ ấy về Minh, Quan Minh tham bạo, Dân bất liêu sinh
341. Lam Sơn Lê Lợi, Bèn dấy nghĩa binh, Thương hại dân ta, Ðánh đuổi quan Minh
345. Gian nguy trăm trận, Thu phục hai kinh, Mười năm bình định, Bốn bể trừng thanh
349. Thái Tôn nối trị, Tánh vốn thông minh, Hiềm vì mê sắc, Nên nỗi thương sinh
353. Nhân Tôn xung ấu, Thái hậu thuỳ liêm, Nghi Dân làm loạn, Vào thành nửa đêm
357. Nhân Tôn ngộ hại, Nghi Dân tiếm lên, Triều đình tôi cũ, Giết hại liền liền
361. Lê Xí Ðinh Liệt, Xướng nghĩa phế ngay, Bèn rước Gia Vương, Tôn lên liền ngày
365. Thánh Tôn tức vị, Gìn giữ mối giềng, Ở ngôi trí trị, Ba tám năm trường
369. Sử xưng minh chủ, Tài đức khác thường, Ví cùng Trung Quốc, Võ đế Văn hoàng
373. Hiến Tôn Túc Tôn, Truyền đến Quỷ Vương, Tin dùng ngoại thích, Tàn hại trung lương
377. Ông Nguyễn Văn Lang, Cùng ông Giản Tu, Ðem quân tam phủ, Ra đánh đông đô
381. Quỷ Vương tự vẫn, Trư Vương nối lên, Ở ngôi tám năm, Duy Sản thí liền
385. Chiêu Tôn tức vị, Ðăng Dung lộng quyền, Lòng toan soán đoạt, Chiêu Tôn ưu phiền
389. Nửa đêm xa giá, Qua xứ Sơn Tây, Ðăng Dung không kể, Chẳng rước vua về
393. Lập hoàng đệ Xuân, Tại tỉnh Hải Dương, Chiêu Tôn về kinh, Ðăng Dung cướp ngang
397. Chiêu Tôn thua chạy, Trịnh Tuy cứu giá, Nghe gièm giết hại, Trịnh Tuy tướng tá
401. Trịnh Tuy hờn giận, Hộ giá vào Thanh, Ðăng Dung bèn rước, Hoàng đệ về kinh
405. Chiêu Tôn bị bắt, Ðăng Dung thí ngay, Truyền cho hoàng đệ, Thiền vị tức thì
409. Họ Mạc soán Lê, Qua cáo Minh liền, Dâng vàng dâng đất, Minh cho chức quyền
413. Ðăng Dung lên ngôi, Mới đặng ba năm, Cho con Ðăng Doanh, Tức vị cải nguyên
417. Truyền con với cháu, Mạc Hải Mạc Nguyên, Ðến chắt Mậu Hợp, Năm đời mất liền
421. Ðức triệu tổ ta, Trước làm quan Lê, Thấy Mạc tiếm thiết, Lo sợ trăm bề
425. Ðánh Mạc chưa đặng, Lánh vào Ai Lao, Vua Lào Xạ Ðẩu, Cho ở Sầm Châu
429. Chiêu binh mãi mã, Tìm kiếm dòng Lê, Gặp được Trang Tôn, Xa giá rước về
433. Biết ông Trang Tôn, Là con Chiêu Tôn, Ngài bèn lập lên, Lập rồi tiến công
437. Ngài thấy Trịnh Kiểm, Thao lược tinh thông, Gả con Ngọc Bảo, Cho làm tiên phong
441. Ðánh cùng họ Mạc, Tại xứ Lôi Dương, Quân ta xung đột, Quân Mạc tan hoang
445. Gần xa khen ngợi, Hào kiệt văn phong, Kinh lược Thanh Nghệ, Theo ngọn cờ hồng
449. Quân đến Tây đô, Tướng Mạc ra đầu, Tên là Chấp Nhất, Kế hiểm mưu sâu
453. Thấy ngài trí dũng, Liệu địch không qua, Đặt bày yến tiệc, Bỏ độc vào trà
457. Rước mời gắn bó, Triệu tổ chẳng ngờ, Nửa đêm về doanh, Tướng tinh phút lờ
461. Phù Lê diệt Mạc, Công nghiệp gần thành, Trang Tôn nghe tin, Thương tiếc hãi kinh
465. Giao cho Trịnh Kiểm, Tiết chế các doanh, Ðô soái tướng tá, Ðánh cùng mạc binh
469. Con thứ hai ngài, Là đức Thái Tổ, Công tuy đã nhiều, Tuổi còn đương nhỏ
473. Nối theo chí trước, Phò Lê rất trung, Trịnh Kiểm nghi kỵ, Lo sợ khôn cùng
477. Nói cùng Ngọc Bảo, Vào trấn phía trong, Ô Châu ác địa, Thiệt cũng cam lòng
481. Trịnh Kiểm nghĩ rằng, Ô Châu một chỗ, Tâu cho vào trấn, Trước sau cũng khổ
485. Thái tổ thấy chỉ, Lãnh thuyền kéo vô, Đến nơi Quảng Trị, Gây dựng cơ đồ
489. Muôn năm đế nghiệp, Từ ấy mà ra, Thần truyền thánh kế, Mở mang nước ta
493. Mới đặng chín đời, Ðến đời Hiếu Ðịnh, Ngoại thích Phúc Loan, Chuyên quyền loạn chánh
497. Tây Sơn Nguyễn Nhạc, Ở đất Bình Ðịnh, Bèn cùng Tập Ðình, Dẫn binh ra đánh
501. Trịnh sai Ngũ Phúc, Cùng kéo binh vô, Kể tội Phúc Loan, Xin phải nên tru
505. Các quan vâng chỉ, Ðem nạp Phúc Loan, Ai hayNgũ Phúc, Nói khác mưu gian
509. Lại đưa thư rằng, Anh em Nguyễn Nhạc, Chiếm cứ Quy Nhơn, Tung hoành bạo ngược
513. Xin đem quân Trịnh, Giúp với quan quân, Ðồng lòng hết sức, Trừ giặc cứu dân
517. Ngũ Phúc gian kế, Duệ Tôn chưa nghe, Quân Trịnh xông tới, Quân ta lui về
521. Ðánh nhau mấy trận, Quan quân đều thua, Ngài vào Quảng Nam, Bèn mất kinh đô
525. Gặp quân Nguyễn Nhạc, Ðến từ Bình Ðịnh, Trước sau đều giặc, Duệ Tôn nam hạnh
529. Lập hoàng tôn Dương, Xưng rằng Ðông cung, Trấn tỉnh Quảng Nam, Xem xét ngoài trong
533. Nhạc sai Tập Ðình, Ðem quân đến đánh, Bèn rước Ðông cung, Ðem về Bình Ðịnh
537. Nửa đêm Ðông cung, Ði theo thương thuyền, Chạy vào Gia Ðịnh, Năm ngày đến liền
541. Trịnh Hoàng Ngũ Phúc, Kéo thẳng binh vô, Ðành cùng Nguyễn Nhạc, Quân Nhạc đều thua
545. Nhạc bèn khiến sứ, Tới yết Trịnh Doanh, Xin cùng Ngũ Phúc, Tình nguyện đầu thành
549. Trịnh cho Nguyễn Nhạc, Làm chức Tướng quân, Lại sai Bùi Ðạt, Vào trấn Phú Xuân
553. Duệ Tôn lúc ấy, Gặp hoàng tôn Dương, Bèn thiền vị cho, Xưng Tân Chánh Vương
557. Nhạc sai Huệ Lữ, Vào đánh Sài Gòn, Quân giặc tàn bạo, Quân ta hao mòn
561. Vương qua Hương Ðôi, Ngài tới Long Xuyên, Giặc bèn đuổi theo, Ðều tuẫn nạn liền
565. Ðức Cao hoàng ta, Ði theo Duệ Tôn, Gian nguy lắm lúc, Lao khổ khôn cùng
569. Duệ Tôn vẫn biết, Tài đức hơn người, Phục cơ nghiệp cũ, Thường nói cùng ngài
573. Gặp cơn quốc biến, Còn đương thiếu niên, Nguyên soái nhiếp chính, Các tướng tôn lên
577. Năm thứ Mậu Tuất, Ngài nhiếp quốc chính, Thu phục Sài Gòn, Trú tất Gia Ðịnh
581. Năm ấy tháng năm, Nguyễn Huệ vào đánh, Quân ta đều thua, Bèn mất Gia định
585. Ðến năm Kỷ Hợi, Mùa xuân tháng ba, Quan quân thu phục, Gia định về ta
589. Canh Tý nguyên niên, Ngài tức vương vị, Dùng Lê Cảng Hưng, Niên hiệu Giáp Tý
593. Năm Dần tháng hai, Nguyễn Huệ nhập khấu, Ngài ra Phú Quốc, Côn Lôn các đảo
597. Bèn sai Ða Lăng, Bảo hộ Ðông cung, Qua xin Ðại Pháp, Ðem binh giúp cùng
601 Đại Pháp lúc ấy, Nhiều việc chưa cho, Nên ông Đa Lăng, Rất đỗi sợ lo
605. Bèn đem Ðông Cung, Trở về Ấn Ðộ, Mời anh em bạn, Hai ông quan võ
609. Tên là Ða Du, Lại với Ni Ê, Hai chiếc tàu binh, Một đoàn kéo về
613. Ngài thấy Ðông cung, Cùng ông Ða Lăng, Ða Du Ni Ê, Mừng rỡ khôn ngần
617. Lúc trước Ða Lăng, Có tiến mấy ông, Ðều người Ðại Pháp, Trung nghĩa khôn cùng
621. Buổi ấy lấy đặng, Hạ du Gia định, Sai ông Ni Ê, Giữ gìn mấy tỉnh
625. Lại sai Ða Du, Qua tiểu Lữ Tống, Cùng xứ Áo Môn, Mua tàu mua súng
629. Ông Tào Mạn Hoè, Thiệt là trung liệt, Ðánh cùng Nguyễn Huệ, Trận tiền tử tiết
633. Sắc cho Mạn Hoè, Thờ vào Hiển Trung, Giám Mu.c Ða Lăng, Tấn tước quận công
637. Lúc ấy theo ngài, Các quan Ðại Pháp, Ai có công lao, Ơn đền nghĩa đáp
641. Kể từ bôn ba, Chốc đã mười thu, Tháng giêng năm Thìn, Ngài tại Thổ Chu
645. Qua Xiêm cầu viện, Vua Xiêm viện cho, Về đánh Tây Sơn, Quân Xiêm cũng thua
649. Ngài lại qua Xiêm, Ở Vọng Các thành, Truyền cùng các tướng, Ðồn điền mộ binh
653. Năm Ngọ Nguyễn Huệ, Ra đánh Bắc Kỳ, Phá tan quân Trịnh, Yết kiến vua Lê
657. Hiển Tôn run sợ, Thụ bệnh băng tồ, Huệ lập Chiêu Thống, Rồi kéo binh vô
661. Nguyễn Nhạc xưng đế, Chiếm cứ Bình Ðịnh, Nguyễn Huệ truyền hịch, Dẫn binh vào đánh
665. Nhạc than cùng Huệ, Thịt xáo nồi da, Huệ thấy khốn cùng, Mới cho giảng hòa
669. Ðương khi Huệ Nhạc, Anh em đánh nhau, Ông Tống Phước Ðạm, Ðến Xiêm gửi tấu
673. Gia Ðịnh sơ phòng, Xin Ngài về đánh, Tháng tám năm Thân, Thu phục Gia Ðịnh
677. Huệ nghe Nguyễn Chỉnh, Ở đất Bắc Kỳ, Giả làm trung nghĩa, Diệt Trịnh phò Lê
681. Sai Vũ Văn Nhậm, Ðem binh ra đánh, Lấy thành Thăng long, Giết tên Nguyễn Chỉnh
685. Lạ thay Nguyễn Huệ, Lại ra Long Biên, Văn Nhậm tới hầu, Truyền đem chém liền
689. Nguyễn Huệ lúc ấy, Lấy hết Bắc kỳ, Giết rồi Văn Nhậm, Đòi các quan Lê
693. Truyền cho Tiến Tôn, Đều dâng một biểu, Ông Nguyễn Huy Trạc, Uống thuốc chẳng chịu
697. Huệ thấy Huy Trạc, rất nỗi kinh nghi, Quyền lập Duy Cẩn, Ðem quân trở về
701. Giao Ngô văn Sở, Gìn giữ Bắc thành, Lê hậu qua Tàu, Cáo cùng đại Thanh
705. Thanh sai Sĩ Nghị, Suất Mãn Hán binh, Phục Lê trừ tặc, Tế độ sanh linh
709. Sĩ Nghị mới đến, Tuyên phong Lê hoàng, Sửa sang rường mối, Sắp đặt quân quan
713. Nguyễn Huệ nghe báo, Dâng thư xin hàng, Sĩ Nghị tin lấy, Sơ suất phòng gian
717. Giáo cờ xếch xác, Ðêm khuya canh tàn, Nguyễn Huệ biết đặng, đốc suất quân quan
721. Kiến nguyên tức vị, Thẳng ra một đường, Ðến lũy Ngọc Hồi, Tàu chẳng cho sang
725. Ðánh cùng quân Tàu, Phá Tàu tan hoang, Quân Tàu thua chạy, Lui về Nam quan
729. Nguyễn Huệ khiến sứ, Qua Tàu tạ tội, Xin cho chức quyền, Giữ gìn bờ cõi
733. Thanh biết gian khi, Nghĩ đánh chẳng đặng,Chi bằng cho đi, Ắt tiêu bên hấn
737. Lê chúa đến Thanh, Lại xin viện binh, Càn Long không cho, Băng tại Yên kinh
741. Năm Tý năm Sửu, Huệ Nhạc chết liền, Quan quân thu phục, Bình Ðịnh Phú Yên
745. Giữ thành Bình Ðịnh, Tướng giặc ra đầu, Ngài sai Võ Tánh, Lại với Tùng Chu
749. Hai người ra sức, Gìn giữ thành này, Dũng Diệu tướng giặc, Ðem quân đến vây
753. Ngài truyền Võ Tánh, Bỏ thành ra ngoài, Võ Tánh dâng sớ, Tâu mật cùng ngài
757. Ðây nhiều quân giặc, Ngoài Huế không hư, Xin phải thừa cơ, Ra lấy kinh sư
761. Năm Dậu tháng năm, Ngài suất đại binh, Vào cửa Tư Hiền, Khắc phục cựu kinh
765. Sai Lê Văn Duyệt, Cứu viện Võ Tánh, Dẫn binh gấp vào, Giải vây Bình Ðịnh
769. Bình Ðịnh thành hãm, Tiêu tức mới biết, Tôn Tánh Tùng Châu, Tiến huyên tử tiết
773. Các quan đều xin, Tức vị kiến nguyên, Ngài truyền chỉ rằng, Giặc còn chưa yên
777. Rồi đến năm sau, Thân chinh Bắc thành, Sinh cầm Quang Toản, Tặc đảng tận bình
781. Kể từ Nguyễn Huệ, Vào đánh Đồng Nai, Mất đi phục lại, Biết mấy mươi hồi
785. Phục thù báo oán, Chí quyết chẳng sai, Phương chi thánh đức, Văn võ gồm tài
789. Điềm lành sự lạ, Hiển hiện hoài hoài, Sấu ngăn thuyền lại, Trâu lội qua vời
793. Gió to nước ngặt, Ngoài đảo giữa khơi, Gian nan lắm lúc, Nguy hiểm đòi nơi
797. Dẹp yên nghịch tặc, Ba mươi năm trời, Nhất thống Nam Việt, Bờ cõi trong ngoài
801. Truyền con cháu chắt, Biết mấy muôn đời, Cho hay lịch số, Trời hiệp theo người805. Coi trong sử Việt, Chuyện lớn kể ra, Chấp chỉnh lời quê, Làm diễn nghĩa ca
No comments:
Post a Comment