Monday, May 14, 2012

阮勸 Nguyễn Khuyến (1835–1909)


Thơ Văn Nguyễn Khuyến 阮勸 (1835–1909)
I   Tam nguyên Yên Đổ thi ca三 元 安 堵 詩 歌
             啓定十年五月吉日新刊
Khải Định thập niên ngũ nguyệt cát nhựt tân san [1925]
  1. Bản in, chép từ Thư Viện gia đình Hoàng Xuân Hãn (Paris)
  2. 河内 福文堂藏板  Hà Nội Phúc Văn Đường tàng bản
  3. 河内 柳文堂藏板  Hà Nội Liễu Văn Đường tàng bản
Bản 2 & 3 chép từ Thư viện Việt Nam, ký số  R.625 & R.1061  
qua www.nomfoundation.org/ 

VĂN BẢN: Ba bản giống nhau, gồm 17 tờ 20 x 14 cm
39 bài bao gồm thơ, hát, văn vãn, câu đối của Nguyễn Khuyến阮勸 (trong đó 16 bài thơ, 7 bài hát, 3 bài văn, 13 đôi câu đối. Có 3 bài thơ chữ Hán được diễn Nôm, một đôi câu đối 1 vế Hán, một vế Nôm): thơ hỏi thăm bạn, vịnh cầm kì thi tửu, tập Kiều, vịnh ông trời…; văn vãn viếng bạn, di chúc…; bài hát ông Phỗng đá, mẹ Mốc, hát ả đào…; câu đối ngày tết, viếng tang, chế giễu…
II   Lê Văn Đặng Giới Thiệu Chữ Nôm Cấp 2 & 3. Hải Biên 2002.  .
II Văn Học Chữ Nôm. Lê Văn Đặng. Hải Biên 2012.
IV  http://vi.wikisource.org/wiki/
  • Các bản Quốc Ngữ Thơ Nôm
  • Các bản Thơ Chữ Hán và phiên âm
V  Thi Hào NGUYỄN KHUYẾN Đời và Thơ. Nguyễn Huệ Chi. Viện Văn Học.
      NXB Giáo Dục. Hanoi 1994.
Sách dày 729 trang, gồm hai phần
  1. Nguyễn Khuyến, Con người và Thi Ca
  2. Thơ Tuyển gồm
  • Thơ Chữ Hán (42 bài)
  • Thơ Nôm tác giả tự dịch (13 bài chép trong phần thơ Chữ Hán)
  • Thơ Nôm (25 bài)


Với vanhocchunom.Blogspot chúng tôi có tham vọng phổ cập một số tài liệu Chữ Nôm, bắt đầu với Thi Hào Nguyễn Khuyến, kế tiếp là Hồ Xuân Hương Thi Tập, Nguyễn Trãi Quốc Âm Thi Tập, Chinh Phụ Ngâm, Cung Oán Ngâm Khúc, Truyện Kiều, v.v.
Các trang sau đây ghi lại vài nét về Thi Hào Nguyễn Khuyến (1835-1909) và một số tác phẩm tiêu biểu. Tài liệu Chữ Nôm, chữ Hán phần lớn trích từ
  • Bản Nôm Tam Nguyên Yên Đổ Thi Ca, Liễu Văn Đường (1925),
  • Lê Văn Đặng Giới Thiệu Chữ Nôm Cấp 2 & 3, Hải Biên 2000.
  • Thi Hào NGUYỄN KHUYẾN đời và thơ, Nguyễn Huệ Chi. NXB Giáo Dục. Hanoi 1994.
                                             
1. Bản Liễu Văn Đường giới thiệu
              NGUYỄN KHUYẾN TRẦN BÍCH SAN 陳碧珊.
官三元𠸜󰐥阮文勝𠊛廊安堵縣南昌省河南𧍋出政旦巡撫𧗱𡢐𤴬𧍋𧗱致仕𧍋官三元渭川陳碧山官黄甲三登范文誼𠄩翁共固㗂麻文官安堵辰色欣𣉹場河場南群試𥢅科甲子𠄩翁共𠫾󰖓官三登官三登吲浪科尼𠄩󰒭𠄩丐首科、麻󰒭渭川辰𨖅試会掄朱丐二甲女官三元安堵空𧡊吲命丐進士辰固意空平𢚸官渭川沛吶遜官安堵𧡊碎活、麻𠸗沕輸󰒭𢧚懞朱碎󰐥󰒭欺会試碎欣󰒭科試官渭川杜首䚵場南麻官安堵杜首䚵場河。旦𡢐官渭川吏杜掄会元庭元麻官安堵果空杜官安堵息𡗋𢷮𠸜󰐥吧於掄𥪝󰖓囯子监試䚵会女拱吼吏强憤志斈行戈䚵会女󰐥䚵辛未辰𧍋買杜三元𧍋󰐥固㗂課意麻喃拱𡗋𡗉勾才情自理趣埃埃拱沛腹
Quan Tam nguyên tên là Nguyễn Văn Thắng, người làng Yên Đổ, huyện Nam Xương, tỉnh Hà Nam. Ngài xuất chánh làm đến tuần phủ, về sau vì đau mắt nặng, Ngài cáo về trí sĩ. Khi Ngài còn làm học trò cùng với quan Tam nguyên Vị Xuyên Trần Bích San, cùng học quan Hoàng giáp Tam đăng Phạm Văn Nghị. Hai ông cùng có tiếng hay chữ, mà văn quan Yên Đổ thì sắc hơn.
Bấy giờ, Trường Hà, Trường Nam còn thi riêng. Khoa Giáp Tý (1864), hai ông cùng đi thi Hương, vào hầu quan Tam đăng. Quan Tam đăng dặn rằng khoa này hai anh làm cho thầy hai cái thủ khoa, mà anh Vị Xuyên thì sang năm thi Hội làm luôn [luân] cho thầy cái Nhị giáp nữa. Quan Tam nguyên Yên Đổ không thấy thầy dặn mình làm luôn cái Tiến sĩ, thì có ý không bằng lòng. Quan Vị Xuyên phải nói tốn [khiêm tốn] với quan Yên Đổ: “Thầy thấy tôi hoạt [linh hoạt], mà xưa nay vẫn thua anh, nên thầy mong cho tôi, tức là khuyên anh đấy. Chớ khi hội thí, tôi hơn anh thế nào được!” Khoa thi Hương ấy, quả nhiên quan Vị Xuyên đỗ thủ khoa Trường Nam, mà quan Yên Đổ đỗ thủ khoa Trường Hà. Đến năm sau, thi Hội, quan Vị Xuyên lại đỗ luôn Hội nguyên, Đình nguyên, mà quan Yên Đổ quả nhiên không đỗ. Quan Yên Đổ tức lắm, mới đổi tên là Nguyễn Khuyến, và ở luôn trong kinh, vào học Quốc Tử Giám. Thi khoa Hội nữa, cũng hỏng, lại càng phẫn chí học hành. Qua khoa Hội nữa là khoa Tân Mùi (1871), thì Ngài mới đỗ Tam nguyên. Ngài là một bực hay chữ có tiếng thưở ấy, mà Nôm cũng hay lắm, nhiều câu tài tình tự nhiên, lý thú, ai ai cũng phải phục.
NGUỒN: Bản Nôm Liễu Văn Đường, các trang 1b-2b.
2. TẬP KIỀU
BÀI THƠ TẬP KIỀU
󰉽 𦇒 Thằng bán tơ đâu giở mối ra
󰖊 Làm cho bận đến cụ Viên già
󰌬 𤾓 Muốn êm phải biện ba trăm lượng
𢧚 Khéo xếp nên liều một chiếc thoa
𣘈 Đón khách mượn màu son phấn mụ
Bán mình chuộc lấy tội tình cha
󰒴 󰀿 Có tiền việc ấy mà xong nhỉ
Từ trước làm quan cũng thế a

NGUỒN: Bản Nôm Liễu Văn Đường, trang 13b.
3. Trào Tú Điển Ca
嘲秀典歌 Trào Tú Điển Ca
廊巨禄固柴秀典               Làng Cự Lộc có thầy Tú Điển
󰓜𠓨噠傳𡥵魔  Rượu típ vào nói rặt chuyện con ma
𢟔膠使数𠊛              Quen thói keo lại xỏ người ta
𢆧󰖊数吏          Chẳng may gặp keo già xỏ lại
𠄼句客𢚕         Cũng học năm ba câu khách dạy
𦊛𣎃𦊚𧗱      Trương tư tháng bốn ngộ về Tàu
瘦吏茂酉窍油嫌         Xấu lại tốt dậu khiếu dầu hiềm
浽左變路茂热         Một nỗi tá biến lộ mậu nhiệt
句文字劬眉局        Câu văn tự cù mỳ cục mịch
家有人求󰔙物求           Gia hữu nhơn cầu vạn vật cầu
𠄩𡀔傳姑頭          Một hai khi lộ chuyện cô đầu
髙興祖𩵽朱院𢜝          Cao hứng tổ tôm cho vờn sợ
欺論鉑𧗱𢗼𡢻         Khi luận bạc về nhà lo nợ
𡞕喯朱如𣕤𩈘     Vợ buông cho như tảo* đổ mặt
𠁀𠊛特買知音      Bàn đời người được mấy tri âm
tảo  𣕤:晧切音早
NGUỒN: Xuân Hương Di Cảo, tr. 38-39 

 1. SƠN TRÀ
排詩迻朱官按察朱孟禎 Bài thơ đưa cho quan Án Sát Chu Mạnh Trinh 1排喃 (một bài chữ, một bài Nôm)
  Xuân lai khách tứ nhứt sơn trà 2
󰒥    Túy lý mông lung bất biện hoa
     Bạch phát thương nhan ngô lão hỹ
󰒥     Lục bào hoa hốt tử nhiên da
穿     Triêu phong chi khủng xuyên kiều diệp
󰕓   Mộ vũ thiên nghi lạc lục gia
    Cửu hỹ ngô duy văn thứ tỵ
󰃵    Tuyệt vô hương tín tiếu kha kha

DỊCH NGHĨA
Tết đến có người khách tặng một chậu hoa sơn trà
Đang say nhèm nên không biết là hoa
Với tóc bạc dung nhan tiều tụy, ta già rồi sao
Mặc áo bào xanh, tay cầm hốt hoa chính là ông đấy à
Gió sáng chỉ sợ bọn xỏ lá
Mưa chiều e ngại lá cà xanh rơi rụng
Từ lâu ta phải nghe bằng mũi
Tuyệt nhiên không ngửi được mùi thơm, ta cười dài.
2. KHÓM TRÀ
排詩譯音 Bài thơ dịch Quốc âm 3 Khách có đưa cho một khóm trà
󰒥 Say nhèm 4 nào có bén mùi hoa
𩯀 𤽸 󰖊 󰀿 Mày xanh tóc trắng ta già nhỉ
Đai bạc áo lam bác đấy à
󰑸 𣌋 𠲖 𢯧 Gió sớm chỉ e phường xỏ lá 5
𨻫 Mưa chiều luống sợ lũ dơi già
𥹰 𦖑 𪖫 Lâu nay ta chỉ nghe bằng mũi
Đách biết 6 mùi thơm 7, một tiếng khà
: 三元安堵詩.啓定十年三月吉日新刊.柳文堂藏板.


Nguồn : Tam Nguyên Yên Đổ Thi Ca (1926)  Liễu Văn Đường tàng bản (trang 3b-4a)
Chú thích :
1 Người tặng hoa Sơn Trà cho cụ Tam Nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến thời đó có lẽ không phải là Chu Mạnh Trinh mà có thể là Hoàng Cao Khải .
Cuối năm 1883, Nguyễn Khuyến được cử làm quyền Tổng đốc Sơn Tây thay cho Tổng đốc Nguyễn Đình Nhuận đã bỏ Sơn Tây lên Hưng Hóa chống thực dân Pháp, nhưng Nguyễn Khuyến từ chối. Sau đó Hoàng Cao Khải Kinh lược sứ Bắc Kỳ mời ông đến nhà dạy học, rồi Lê Hoan - Tuần phủ Hưng Yên tổ chức thi vịnh Kiều mời ông làm giám khảo. Hoàng Cao Khải và Lê Hoan là những kẻ cộng tác với thực dân Pháp. Để tránh chuyện lôi thôi nên ông miễn cưỡng nhận lờị.
2 Sơn trà : hoa đẹp nhưng không có mùi thơm.
3 Quốc âm : tức chữ Nôm; chữ : tức chữ Hán.
4 Say nhèm : chữ nhèm lấy âm từ chữ (nhi) nên có thể phiên là nhè; một âm địa phương: say mèm
5 Gió sớm chỉ e phường xỏ lá : trong câu 朝風祗恐穿娇葉 (Triêu phong chỉ khủng xuyên kiều diệp), chữ (triêu) nghĩa là buổi sáng, Nôm mượn âm, đọc trại ra chiều (buổi chiều), nơi câu 6.
6 Đách biết : chẳng biết (thoại ngữ ít dùng trong thi văn).
7 Mùi thơm : chữ  là biến dạng của  thơm .

3. CẦM KỲ THI TỬU
Bài thơ CẦM KỲ THI TỬU 
𠀧 󰔙 󰔝 𠦳 𣈗 Nhơn sanh ba vạn sáu ngàn ngày
𢧚 󰖎 󰆗Thích chí cho nên lắm ngón hay
󰔩 󰓰 Thi Lý  ngâm nga khi mở quyển
𣅶𢭹 𦀊 Đàn Nha tình tính lúc lần dây
𤤰 𢝙 Đem cờ vua Thích  vui bè bạn
  Mượn chén ông Lưu  học tỉnh say
𦊚 Bốn cảnh phong quang cùng tuế nguyệt 
𠁑 𠁀 𨑮 𢬣 Dưới đời tri kỷ mấy mươi tay


Tam Nguyên Yên Đổ Thi Ca (trang 3b-4a)

4. CÂU ĐỐI
1) Ông lão hàng xóm
󰐜老行𠸒𡥵
𢀭𨖅𠽔吀堆勾対底󰐜
𦃿𧍋𦖑𧡊曰朱浪
Ông lão hàng xóm.bảo con rằng:
“Kiếm một cơi trầu sang thưa với Cụ, Xin đôi câu đối để tết thờ ông.”
Bởi Ngài nghe thấy viết cho rằng:



劍没𣛣𦺓𠽔買具 KIẾM MỘT CƠI TRẦU THƯA VỚI CỤ
堆勾對厎蜍翁 XIN ĐÔI CÂU ĐỐI ĐỂ THỜ ÔNG


Cụ tên là Nguyễn Thắng, sau đổi ra Nguyễn Khuyến, hiệu Quế Sơn, tự Miễn Chi, thường được tôn xưng Tam Nguyên Yên Đổ, sinh ngày 15 tháng 2, 1835 - mất ngày 5 tháng 2, 1909.

Sau khi Cụ từ Quan, sống thanh bần, nhà ở khích vách với dân quê.
Một hôm, người hàng xóm kế nhà, bảo con
"Kiếm một cơi trầu thưa với cụ, xin đôi câu đối để thờ ông."
Cụ nghe được, nên chỉ cần viết lại như lời ông hàng xóm.
Câu đối trên trích
TAM NGUYÊN YÊN ĐỔ THI CA, bản Nôm Liễu Văn Đường (1925).

PHỤ CHÚ 1
Thời Tam Quốc, Anh Hùng Hào Kiệt dẫy đầy. Theo Mao Tôn Cương, có ba vị
Đệ nhứt Mưu Sĩ với tài An Bang Tế Thế: Khổng Minh Gia Các Lượng
  • Đệ nhứt Anh Hùng Hào Kiệt, Khí Tiết Rạng Ngời: Quan Vân Trường, hay Quan Công
  • Đệ nhứt Gian Hùng: Tào Mạnh Đức hay Tào Tháo.
Vân Trường được dân gian thờ kính từ Bắc chí Nam, thường trong các Gia đình "Thờ Cúng Tổ Tiên".Có nhà một Nho trào lộng với câu Hoành Phi: 東三乎千上流 đông tam hồ thiên thượng lưu
Đọc ra: đôngđông, tamba, hồ ôi ; thiên ngàn, thượng trên, lưu trôi.
Đọc lại:
東三乎 đông tam hồ >> đông ba ôiđôi ba ông
千上流 thiên thượng lưu >> ngàn trên trôi ngồi trên trang.
Câu Hoành Phi 東三乎千上流 mô tả trang thờ Quan Vũ với hai nghĩa tử hầu hai bên, hiểu ra là
Đôi ba ông ngồi trên trang 𠀧𡎥𨕭庄.
PHỤ CHÚ 2
· (kiếm) kiếm = sửa soạn, theo nghĩa ngày xưa, nay ít dùng.
· (cơi) = Ý (bộ mộc) + Âm (khai); mượn âm (khai) đọc ‘cơi’.
· 𧍋 (ngài) = Ý (bộ trùng) + Âm (ngại); GIẢ TÁ Nôm; chữ khác: 𠊚
· (thừ) thờ, GIẢ TÁ mượn âm; thiềm thừ 蟾蜍 là con cóc; chữ khác: (từ) thờ, GIẢ TÁ mượn nghĩa
· (thiêm) thôn (xóm), GIẢ TÁ tích lũy; bộ trúc biến dạng.
· (tiết) tết, GIẢ TÁ mượn âm; bộ trúc biến dạng .
· (mãi) mới, với, GIẢ TÁ mượn âm.
NGUỒN: Bản Nôm Liễu Văn Đường, trang 13b.
LVĐ Giới Thiệu Chữ Nôm Cấp Hai, bài 5.
2) Mừng cô Tư Hồng
Tương truyền có tên Trần Thị Lan, quê Phủ Lý, Hà Nam, lấy chồng Hoa kiều tên Hồng, sau lấy quan tư Tây trong quân viễn chinh Pháp, nên có tên Tư Hồng .
Được thực dân Pháp đề nghị triều đình Huế sắc phong ‘Tứ Phẩm Cung Nhơn’, phong cho cha làm ‘Thị Độc 侍讀 (hầu và đọc sách cho vua). Nguyễn Khuyến làm câu đối
Mừng cô Tư Hồng 𢜠𦊛.
Vế Trắc (chữ cuối vần trắc)
Lạ lùng thay khôn ngoan chẳng lọ từ chồng, ba ngàn đồng sắc tứ phu nhơn, người được như mầy là ít có.
𨓡 𠦳 𠊛 𠋥 󰐥 𠃣

Vế Bằng (chữ cuối vần bằng)
May mắn nhỉ danh giá để dành cho cụ, bảy mươi tuổi tinh phong Thị Độc*, ai rằng sanh gái cũng như không.
󰀿 𨑮 󰏨 𡛔
*Thị Độc: Chức quan trong Viện Hàn Lâm, hàm Chánh Ngũ Phẩm (5-1), Hán Việt Từ Điển, Đào Duy Anh, trang 401a.
3) Vợ thợ rèn khóc chồng
󰕒底淋󰓢𡥵𢚕𥙩 Nhà cửa để lầm than, Con thơ dại lấy ai rèn cặp
󰒴𥙷󰏸𥘷𡗋𠴓𡀂 Công việc đành bỏ bễ, Vợ trẻ trung lắm kẻ đe loi
PHỤ CHÚ
Vài chú thích CHỮ NÔM:
(lâm) lấm, lầm : GIẢ TÁ mượn âm
(bễ) bễ: GIẢ TÁ mượn âm
(chung) chung, trung: GIẢ TÁ mượn âm, đọc trại 'chung >> trung’, theo ‘trẻ trung’;
(tiếm): GIẢ TÁ mượn âm, đọc ‘tím’, màu tím (trong câu 4).
4) Vợ thợ nhuộm khóc chồng
* 計徐𦲿𧺀欺運𧺂𣅶𢘽𢘾𡥙
* 𧗱𤂬鐄擬𡞕𡥵𪘵󰊃僭肝僭󰎰󰖌
Thiếp kể từ lá thắm sá duyên, khi vận đỏ, lúc cơn đen, điều dại điều khôn nhờ bố cháu;
Chàng nay về suối vàng nghĩ lại, vợ đầu xanh, con răng trắng, tím gan tím ruột với ông trời.
PHỤ CHÚ
1) Chữ gach dưới ghi màu sắc của thợ nhuộm;
2) NGUỒN: Tam Nguyên Yên Đổ Thi Ca, trang 15b.

5 . CÂU ĐỐI ĐÓNG Ở ĐÌNH
Thú Quê
勾対諌於亭吶役廊諌於󰕒吶亊𠰺
Câu đối đóng ở đình nói cách việc làng, đóng ở nhà nói sự dạy học
官拯官辰民詔中亭𡴯𡎢󰓱𠀧𥺊
Quan chẳng quan thì dân, chiếu trong đình ngất ngưỡng ngồi trên, nào rinh, nào tác, nào bàn ba, tiền làm sao, gạo làm sao, đóng góp làm sao.
清台󰑯󰔙󰔝𠦳𣈗丐首𤞼𥆾柴陀忍𩈐
Thảnh thơi ba vạn sáu ngàn ngày, cái thủ lợn nhìn thầy đà nhẵn mặt;
辰具屡小子𠆳昃平
Thầy chẳng thầy thì cụ, lũ tiểu tử trùm nhau (nhu) đứng trước, chữ là thế, nghĩa là thế, nghĩa là thế, bằng là thế, trắc là thế.
藤蕩𨑮𠄩𣎃𡥵󰊊𦖻
Đằng đẵng một năm mười hai tháng, con mắt già (gà) đeo vàng đã mòn tai.


6 . THÊM VÀI CÂU ĐỐI
* Mừng Đám Cưới
𢀭𡭣之錢𠫾𠄽空沛𨤧
Giàu có thiếu chi tiền, đi một vài quan không phải lẽ;
𢀨时拱鉑𢭮𠄼𠀧𡨸
Sang không thì cũng bạc, gửi năm ba chữ gọi là tình.
* Đối Đáp với Cô Hàng Sách
𧸝𨴦𢜝 Bán mại cửa quan sợ cụ空無𥪞𢘾 Không vô trong nội nhớ hoài

Ghi chú:
1. Mỗi vế gồm ba đôi, trong mỗi đôi, chữ Nôm thích nghĩa chữ Hán, như
  • mại = 𧸝  bán,
  • quan = 𨴦  cửa,
  • cụ = 𢜝  sợ;
  • vô = không,
  • nội = 𥪞  trong,
  • hoài = 𢘾  nhớ.
2. Ngoài ra sáu chữ Hán, mỗi chữ có 2 nghĩa (theo âm Nôm).
3. 賣: âm Huế "mại" có thể là "mãi".









1 comment: